Chuyện đón Tết Nguyên Đán của người Việt xưa

Đã có nhiều phong tục ngày Tết đã bị mai một, nhưng đa số vẫn còn được gìn giữ cho đến tận ngày nay.

Tết đối với người Việt Nam, theo một tập tục lâu đời, không chỉ đơn giản là ngày kết thúc một năm cũ và mở đầu một năm mới âm lịch. Đó là dịp nghỉ ngơi, mừng những thành quả của cả một năm lao động nông nghiệp vất vả, không có ngày nghỉ. Đó là dịp mọi người ăn ngon hơn, uống nhiều rượu hơn bất kỳ ngày vui mừng nào trong năm: “đói giỗ cha, no ba ngày Tết”, tục ngữ đã dạy như thế. Đó là dịp họp mặt của gia đình, thậm chí với cả đại gia đình: cha mẹ, anh chị em, có khi còn cả với ông bà, cụ kỵ, nội và ngoại để con, cháu, chắt chúc thọ người trên. Đó là dịp gặp gỡ họ hàng xa gần, bạn bè, đồng hương nơi thôn xóm. Thiêng liêng hơn, đây còn là dịp tưởng nhớ với lòng thành kính những người đã khuất trong gia đình – một sự tưởng nhớ lâu nay đã trở thành sự thờ cúng trang nghiêm. Mà những hoạt động đó lại diễn ra trong những ngày lập xuân, theo sự phân chia của lịch pháp cổ truyền mỗi năm chia làm 24 tiết: vào những ngày này mùa xuân bắt đầu sau mùa đông giá lạnh (nhất là ở miền Bắc Việt Nam), cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa đua sắc khoe hương, con người rạo rực sức sống, tràn đầy ước mơ, chào đón một năm mới nhiều hứa hẹn tốt lành…

Tết gắn bó sâu sắc mỗi người con dân dất đất Việt với cộng đồng dân tộc chính là vì những lẽ đó.

Chợ Tết

Để đón chào một dịp trọng đại như thế, người ta phải chuẩn bị từ rất sớm. Hoạt động thu hút sự chú ý của mọi người, nhất là ở vùng quê, là đi chợ Tết, mở ra vào khoảng thời gian 5-10 ngày trước Tết. Người ta có thể đến đây mua sắm mọi thứ cần thiết cho Tết: gạo – chủ yếu là gạo nếp để gói thứ bánh tiểu biểu cho Tết – bánh chưng; gà – nhất là gà trống để làm vật cúng tổ tiên, thần thánh; thịt gia súc – trước hết là thịt heo, cá tươi; mức kẹo; hoa, quả – trước hết là chuối, cam, bưởi, quất, phật thủ…; quần áo mới; đồ chơi cho trẻ em; tranh vẽ… và mọi thứ cần thiết cho việc chuẩn bị các bữa cỗ Tết, các hoạt động tinh thần ngày Tết. Các phiên chợ ấy tấp nập khác thường

 

Phong tục ngày Tết:

Sửa soạn bàn thờ

Cũng trong dịp này, nhà nào nhà nấy lau sạch bàn thờ tổ tiên, từ bát hương, bài vị, đến lọ hoa, lọ hương, cây đèn nến…

Sau đó, người ta bày biện những lễ vật phải để suốt thời gian Tết. Ở những nhà bình dân, bàn thờ khá đơn giản: trong cùng là một cái kỷ cao, đằng trước là một cái hòm gian, ngoài cùng là cái phản gỗ. Lễ vật bao giờ cũng có hương, hoa, bát nước trong, đèn (và nến), vàng cúng… Ở giữa là mâm ngũ quả, thường gồm có chuối, bưởi (hoặc bòng), cam, quýt (hoặc quất), phật thủ (hoặc táo, lê…). Tấm phản là nơi người chủ gia đình quỳ lễ và khấn cầu tổ tiên, và cũng là nơi tiếp khách hoặc ngồi ăn cỗ Tết.

Các món ăn ngày Tết

Những món ăn và vật phẩm văn hóa tiêu biểu nhất thì như một câu đối truyền tụng từ lâu đời, không người Việt Nam nào không biết là:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Hoặc như một vế của câu đối Tết đã có từ lâu đời: “Cảnh Tết thật là vui, nào tranh, nào pháo, náo áo, nào quần, nào dưa hành, mứt bí, nào giò mỡ, bánh chưng, rượu đánh tít mù, tớ muốn quanh năm xuân tất cả”.

Khi nền kinh tế tự túc tự cấp còn phổ biến, dịch vụ chưa phát triển, các món ăn Tết nói chung đều phải tự làm trong gia đình. Vì vậy nhà nào cũng phải sớm lo làm những món ăn đầu vị: làm bánh chưng, giã giò. Không có bánh chưng – hình vuông của nó tượng trưng cho trái đất, nhân đậu tượng trưng cho giới thực vật, thịt lợn tượng trưng cho giới động vật, lá giong gói ngoài tượng trưng cho rừng núi, nước luộc tượng trưng cho nước thiên nhiên – thì không có Tết.